Nhịp tim của bạn tăng lên. Hàm của bạn cứng lại. Dạ dày của bạn réo lên khi thời gian cứ trôi. Đầu óc bạn cảm thấy căng lên. Đây là cảm giác của stress hay găng khi bạn bị sức ép dẫn đến.
Triệu chứng này thì chắc ai cũng biết. Nhưng khi coi xét dưới góc độ hóa học thì đây là một chuỗi nhũng phản ứng xảy ra trong thân chúng ta. thành ra để giúp cho các bạn hiểu rõ hơn về vấn đề này, bài viết lần này sẽ đề cập về hóa học đằng sau stress và những vấn đề liên tưởng. Bạn hãy pha cho mình một ly cà phê và cùng nhâm nhi bài viết nhé! Let’s go!
Giới thiệu
Hiểu về hóa học của stress bắt đầu bằng sự đánh giá các phân tử trong cơ thể chúng ta gọi là dẫn truyền thần kinh. Được mệnh danh là phân tử xúc cảm, được nhà khoa học trước hết phát hiện ra sự tồn tại của chúng là Tiến sĩ Candace Pert, chúng được sinh sản trên khắp thân chúng ta, đặc biệt là trong não và dọc theo đường tiêu hóa. Một trong những chất dẫn truyền tâm thần, serotonin , hình như đã được cài đặt trong chúng ta để giảm bớt phản ứng vật lý của chúng ta đối với bít tất tay.
Cái gọi là “phản ứng găng tay” được kích hoạt khi tuyến thượng thận, một cặp tuyến có kích thước bằng quả óc chó nằm trên thận, nhận được thông điệp đau khổ từ não. Tuyến thượng thận phóng thích adrenalin (ephineprine) và cortisol, hai loại hormone tuần tự chủ xướng phản ứng “ fight-or-flight ” (chiến hay chạy).
Các triệu chứng “fight-or-flight” rất quen thuộc như nhịp tim nhanh, co cơ, tay và chân lạnh, suy nghĩ bỏ chạy. Nghe thì có vẻ khó chịu nhưng trong tình huống phù hợp, chúng rất hữu ích. tỉ dụ như phản ứng của chó khi gặp mèo ấy! Phản ứng bao tay được thiết kế để trở thành một sự kiện “bật và tắt”. ban sơ, nó không được thiết kế để ứng phó với căng thẳng mạn tính.
Tuy nhiên, khi chúng ta phát triển như con người, stress mạn tính đã đi vào cuộc sống của chúng ta. Người ta có thể mường tưởng người đàn ông thời tiền sử săn bắn nhiều ngày trong thiên nhiên và về mặt sinh vật học cần một hệ thống để giữ một cái đầu lạnh. Bằng cách tiết ra serotonin , đây là chất dẫn truyền tâm thần có ích này hình như hoạt động như một bộ đệm chống lại bao tay, cho phép chúng ta thực hành trong môi trường xung quanh đầy thách thức hoặc thậm chí đe dọa.
Hãy xem xét một Ví dụ điển hình cho việc này bằng cách xem phim đặc vụ James Bond, ông là cá nhân chủ nghĩa nguyên mẫu có nhiều serotonin ngừa. mặc dầu đạn bay và nổ tung xe hơi, ông Bond không bao giờ đổ mồ hôi hay thất bại trong việc thực hiện những cảnh nóng.
Thành phần hóa học chính
1. Dehydroepiandrosterone (DHEA)
- Công thức phân tử: C19 H28 O2
- M: 288.424 g / mol
- Điểm nóng chảy: 148,5 độ Celcius hoặc 299 độ Farenheit

DHEA là một hormone nằm ở tuyến thượng thận và có liên can đến găng tay vì nó đã được chứng minh là giúp giảm găng tay kinh niên hoặc những người bị trầm cảm. Khi nồng độ hormone DHEA tăng, găng tay trong thân thể sẽ giảm. Đây là loại hormone phổ thông nhất trong thân thể và giám sát năm mươi loại hormone khác.
Được phát hiện vào những năm 1930, hormone dồi dào này đã qua năm mươi năm tiếp theo được thí nghiệm. Vào những năm 1990 đã mang lại những nghiên cứu lớn nhất về dehydroepiandrosterone khi nó được kết luận đủ an toàn, để bán tại các cửa hàng thực phẩm tự nhiên vì lý do bổ sung. Nhiều bệnh nhân bị mất cân bằng tuyến thượng thận được cung cấp DHEA để thăng bằng với bất kỳ vấn đề nội tiết nào khác có thể xảy ra.
2. Cortisol
- Công thức phân tử: C21 H30 O5
- M: 362.460 g / mol
- Điểm nóng chảy: không rõ

na ná như DHEA, cortisol là một loại hormone được tìm thấy ở tuyến thượng thận. Cortisol được tiết ra trong quá trình “fight-or-flight” cho phép thân thể nghĩ suy chóng vánh và hợp lý. Nồng độ cortisol cao có thể gây căng thẳng mạn tính, có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe đột biến. Hormone này cũng tham dự vào việc điều hòa huyết áp, chuyển hóa glucose hợp, chức năng miễn dịch và chống viêm. Vào những năm 1930, Edward Kendall tiết lậu rằng cortisol, giống như DHEA, nằm ở tuyến thượng thận với sáu loại hormone phổ thông khác trong cơ thể.
3. Epinephrine
- Công thức phân tử: C9 H13 NO3
- M: 183.204 g/mol
- Điểm nóng chảy: không rõ

Epinephrine thường được sinh sản bởi cả tuyến thượng thận và một số tế bào thần kinh. Chất này đóng một vai trò quan trọng trong phản ứng chiến hay chạy bằng cách tăng lưu lượng máu đến cơ bắp, đầu ra của tim, sự giãn nở tuỳ nhi và lượng đường trong máu. Epinephrine thực hiện điều này bằng các tác dụng của nó đối với các thụ thể alpha và beta. Chất này được tìm thấy ở nhiều loài động vật và một số sinh vật đơn bào.
Phản ứng của cơ thể khi stress
Phản ứng căng thẳng bắt đầu trong não. Khi ai đó đối mặt với một chiếc xe sắp tới hoặc nguy hiểm khác, mắt hoặc tai (hoặc cả hai) gửi thông báo đến amygdala , một khu vực của não góp phần xử lý cảm xúc. Amygdala diễn giải những hình ảnh và âm thanh. Khi nhận thấy hiểm nguy, nó tức thì gửi tín hiệu khổ cực đến vùng dưới đồi.
Vùng dưới đồi hơi giống một trung tâm chỉ huy. Vùng não này giao thiệp với phần còn lại của thân duyệt y hệ thống thần kinh tự chủ, điều khiển các chức năng thân thể không tình nguyện như thở, áp huyết, nhịp tim và sự giãn nở hoặc co thắt của các mạch máu chính và đường dẫn khí nhỏ trong phổi gọi là phế quản.
Hệ thống tâm thần tự chủ có hai thành phần là hệ thống tâm thần giao cảm và hệ thống tâm thần phó giao cảm. Hệ thống tâm thần giao cảm có chức năng như bàn đạp ga trong xe hơi. Nó kích hoạt phản ứng tranh đấu hoặc chạy, cung cấp cho thân một luồng năng lượng để nó có thể đáp ứng với những nguy hiểm nhận thức được. Trong khi đó, hệ thống thần kinh phó giao cảm hoạt động như một cái phanh. Nó thúc đẩy phản ứng “nghỉ ngơi và tiêu hóa” làm dịu thân thể xuống sau khi hiểm đã qua.
Sau khi amygdala gửi tín hiệu thống khổ, vùng dưới đồi kích hoạt hệ thống tâm thần giao cảm bằng cách gửi tín hiệu qua các dây tâm thần tự chủ đến tuyến thượng thận. Các tuyến này phản ứng bằng cách bơm hormone epinephrine (còn được gọi là adrenaline) vào máu. Khi epinephrine lưu thông trong thân thể, nó mang lại một số đổi thay về sinh lý. Tim đập nhanh hơn thường nhật, đẩy máu đến các cơ, tim và các cơ quan quan yếu khác. Nhịp tim và huyết áp tăng lên. Người qua những thay đổi này cũng bắt đầu thở nhanh hơn. Đường dẫn khí nhỏ trong phổi mở rộng.
Bằng cách này, phổi có thể lấy càng nhiều oxy càng tốt với mỗi hơi thở. Oxy bổ sung được gửi đến não, tăng sự tỉnh ngủ. Thị giác, thính giác và các cảm quan khác trở nên sắc nét hơn. Trong khi đó, epinephrine kích hoạt phóng thích đường trong máu (glucose) và chất béo từ các vị trí lưu trữ lâm thời trong cơ thể. Những chất dinh dưỡng này tràn vào máu, cung cấp năng lượng cho tuốt luốt các bộ phận của cơ thể.
tuốt tuột những đổi thay này xảy ra nhanh đến mức mọi người không biết về chúng. Trên thực tại, hệ thống dây điện hiệu quả đến mức amygdala và vùng dưới đồi bắt đầu dòng thác này ngay cả trước khi các trọng điểm thị giác của não có dịp xử lý đầy đủ những gì đang xảy ra. Đó là lý do vì sao mọi người có thể nhảy ra khỏi con đường của một chiếc xe sắp tới ngay cả trước khi họ nghĩ về những gì họ đang làm.
Khi sự gia tăng ban sơ của epinephrine lắng xuống, vùng dưới đồi kích hoạt thành phần thứ hai của hệ thống phản ứng găng – được gọi là trục HPA. Mạng lưới này bao gồm vùng dưới đồi, tuyến yên và tuyến thượng thận.
Trục HPA dựa vào một loạt các tín hiệu nội tiết tố để giữ cho hệ thống thần kinh giao cảm – “bàn đạp ga” – nhấn xuống. Nếu não tiếp tục nhận thấy thứ gì đó hiểm, vùng dưới đồi sẽ tiết ra hormone phóng thích corticotropin (CRH), đi đến tuyến yên, kích hoạt giải phóng hormone tuyến thượng thận (ACTH). Hormone này đi đến tuyến thượng thận, khiến chúng phóng thích cortisol. cơ thể do đó được nâng lên và cảnh giác cao độ. Khi mối đe dọa qua đi, nồng độ cortisol giảm. Hệ thống thần kinh phó giao cảm – “phanh” – sau đó làm giảm phản ứng bít tất tay.
Một số cách để giảm stress
1. Thư giãn
tấn sĩ Herbert Benson, giám đốc danh dự của Viện y khoa Tâm thể Benson-Henry tại Bệnh viện Đa khoa Massachusetts, đã dành đa số sự nghiệp của ông để tìm hiểu làm thế nào mọi người có thể chống lại phản ứng bít tất tay bằng cách sử dụng kết hợp các phương pháp tiếp cận gợi ra phản ứng thư giãn. Chúng bao gồm thở bụng sâu, tụ hội vào một từ nhẹ nhõm (như hòa bình hoặc tĩnh tâm), hình dung ra những cảnh tĩnh, cầu nguyện lặp đi lặp lại, yoga và thái cực quyền.
hồ hết các nghiên cứu sử dụng các biện pháp khách quan để đánh giá mức độ hiệu quả của phản ứng thư giãn trong việc chống lại găng kinh niên, đã được thực hành ở những người bị tăng huyết áp và các dạng bệnh tim khác. Những kết quả đó cho thấy kỹ thuật này có thể đáng để thử – dù rằng đối với Hầu hết mọi người, nó không phải là thuốc chữa bệnh.
2. Hoạt động thể chất
Mọi người có thể dùng tập thể dục để kìm hãm sự điển tích găng theo nhiều cách. Tập thể dục, chả hạn như đi bộ nhanh trong thời gian ngắn sau khi cảm thấy găng, không chỉ giúp thở sâu mà còn giúp giảm căng cơ. Các liệu pháp vận động như yoga, thái cực quyền và khí công phối hợp các động tác nhẹ nhõm với hơi thở sâu và sự tụ họp ý thức, tuốt luốt đều có thể tạo ra sự tĩnh tâm.
3. giao thiệp tầng lớp
Những người bạn tâm tình, bạn bè, người quen, đồng nghiệp, họ hàng, vợ / chồng và bạn đồng hành đều cung cấp một mạng từng lớp nâng cao cuộc sống – và có thể làm tăng tuổi thọ. Không rõ tại sao, nhưng lý thuyết đệm cho rằng những người thích mối quan hệ thân thiết với gia đình và bạn bè nhận được sự hỗ trợ về mặt cảm xúc, gián tiếp giúp họ duy trì trong những lúc găng tay và khủng hoảng mạn tính.
Bài viết đến đây là hết rồi. Hi vọng sẽ giúp ích cho các bạn phần nào trong ngày mai. Lần sau nếu ai có hỏi về stress thì hãy nhớ về hóa học đằng sau nó nhé!
Tham khảo Wholehealthchicago , Chemistryislife , Harvard Health Publishing , Collective-evolution , C&EN và Experiencelife .
để ý: thông tin về stress và một số cách giảm stress trong bài viết này chỉ mang tính chất tham khảo và không sử dụng để thay thế cho lời khuyên y tế trực tiếp từ bác sĩ. thành thử hãy hỏi ý kiến bác sĩ hoặc chuyên gia để cho thông tin xác thực hơn trước khi thực hiện. Xin cảm ơn!
No comments:
Post a Comment